Chủ nhiệm đề tài: TS. Phạm Văn Thanh
và các cộng sự
Cơ quan thực hiện: Trung tâm Tâm lý học ứng dụng Sông Phố
Mục tiêu của đề tài:
-Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực trạng về vấn đề nghiên cứu, đề tài đề xuất hệ thống giải pháp phòng ngừa người chưa thành niên VPPL trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay
Kết quả nghiên cứu:
– Sau quá trình thử nghiệm, chúng tôi sử dụng lại bảng đánh giá để kiểm chứng mức nhận thức của các em. Kết quả phân tích tại bảng 4.1 cho thấy, điểm trung bình của tất cả các nhân tố nhận thức đều cao hơn 3,5, nghĩa là dường như ở tất cả các hành vi VPPL, các em đều có nhận thức ở mức đồng ý hoặc rất đồng ý. Điều này tương đồng với việc các em có nhận thức cao hơn hẳn về hành vi VPPL. Độ lệch chuẩn đều ở mức 0, 45 đến 5,50, điều này cho thấy tỷ lệ các em có nhận thức cao xung quanh chuẩn là rất cao.
– Kết quả phân tích thống kê mô tả này cho thấy rằng, chương trình huấn luyện để nâng cao nhận thức đã có một mức ảnh hưởng cao đối với HS, dẫn tới các em có nhận thức rất tích cực về hành vi VPPL. Các em HS tham gia thử nghiệm đã được cải thiện một cách rõ rệt về ý thức cũng như nhận thức về hành vi VPPL. Kết quả này được chúng tôi phân tích sâu hơn bằng tần suất xuất hiện các nhóm hành vi ở các mức khác nhau.
– Kết quả cho thấy các em HS trong nhóm trước thực nghiệm nhận thức về những hành vi VPPL rất thấp. Chiếm tỷ lệ phần lớn đa số là ở mức không đồng ý hoặc bình thường. Điều này cho thấy hầu như các em chưa ý thức tốt về những hành vi nào là VPPL, và với số liệu trên cũng phản ánh một phần các em chưa được giáo dục ý thức về những hành vi VPPL một cách phù hợp. Điều này dễ dẫn đến việc các em dễ bị lôi kéo, dễ có những hành vi VPPL hơn. Trong đó, tỷ lệ HS cho rằng không đồng ý với những hành vi VPPL trong nhóm hành vi vi phạm về Bạo lực học đường, chiếm tới 90,9% với ý kiến rằng không đồng ý. Điều này cho thấy hầu như các em chưa hiểu một cách rõ ràng về bạo lực học đường là gì, các em vẫn chưa hình dung những hành vi nào được gọi là bạo lực học đường. Cùng với đó, các nhóm hành vi VPPL như “An toàn giao thông, phá hoại tài sản, tàng trữ vũ khí, trộm cắp” cũng là những nhóm hành vi VPPL mà HS đánh giá là không đồng ý với tỷ lệ 70-76%. Điều này phản ánh về ý thức về những hành vi VPPL còn rất hạn chế và ý thức về pháp luật, về những hành vi VPPL kém là một trong những yếu tố chính dễ dẫn tới những hành vi VPPL.
– Sau chương trình thử nghiệm, dựa vào số liệu thống kê chúng ta thấy hầu như các em có sự thay đổi theo hướng tích cực về nhận thức về hành vi VPPL một cách rõ ràng. Cụ thể, hầu như tỷ lệ lựa chọn đồng ý và rất đồng ý về những hành vi VPPL đều rất cao. Trong đó, đối với những hành vi về giao thông; Trộm cắp; Ma túy; Hiếp dâm; Vũ khí là những nhóm hành vi được HS nhận thức tốt nhất với mức tỷ lệ lựa chọn đồng ý và rất đồng ý trong khoảng 85-90% rất cao.
Nhóm hành vi VPPL (theo nhận thức của HS) | Điểm trung bình | T – test | |
Giao thông | T1 | 2,45 | -48,441
-41,789 |
T2 | 3,87 | ||
Bạo lực học đường | T1 | 2,36 | -46,391
-64,951 |
T2 | 3,58 | ||
Trộm cắp | T1 | 2,42 | -58,533
-53,283 |
T2 | 3,94 | ||
Ma túy | T1 | 2,51 | -46,401
-47,693 |
T2 | 4,28 | ||
Hiếp dâm | T1 | 2,46 | -51,865
-48,441 |
T2 | 4,06 | ||
Mại dâm | T1 | 2,44 | -41,789
-46,391 |
T2 | 4,03 | ||
Phá hoại tài sản | T1 | 2,42 | -64,951
-58,533 |
T2 | 3,91 | ||
Cờ bạc | T1 | 2,49 | -53,283
-46,401 |
T2 | 4,17 | ||
Vũ khí | T1 | 2,47 | -47,693 |
T2 | 4,12 |
Bảng: So sánh mức độ nhận thức về hành vi VPPL của HS trước và sau thử nghiệm
– Ngoài ra, sau thực nghiệm, so sánh kết quả sau khi nâng cao nhận thức cho HS với các buổi trao đổi hướng dẫn giữa thực nghiệm, kết quả nhìn chung cho thấy điểm của nhóm thực nghiệm sau khi được tập huấn chuyên đề cao hơn trước.
– Tiến hành phân tích phương sai ANOVA trên kết quả thu được (kết quả đo trước – sau thực nghiệm trên hai nhóm) cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở lĩnh vực xã hội hóa giữa hai nhóm [F(1, 201), p=0,238], điều này phù hợp với giả thiết ban đầu rằng sau khi được tập huấn các chuyên đề về hành vi VPPL sẽ giúp nâng cao nhận thức của HS.