Chủ nhiệm đề tài: Ths. Nguyễn An Đệ và các cộng sự
Cơ quan thực hiện: Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả miền Đông Nam Bộ
Mục tiêu của đề tài:
+ Mục tiêu chung
Nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất của sản phẩm măng cụt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Mục tiêu cụ thể
– Xác định được hiện trạng canh tác và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra hoa, sượng quả măng cụt.
– Xây dựng được quy trình xử lý ra hoa nghịch vụ cho măng cụt trồng tại Đồng Nai, cây ra hoa sớm, thu hoạch sớm hơn khoảng 1,5 tháng so với vụ thuận và trước mùa mưa.
– Xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác măng cụt làm giảm tỷ lệ sượng quả xuống <15%.
– Xây dựng hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm măng cụt ở Đồng Nai.
– Chăm sóc 2 ha mô hình măng cụt thời kỳ kiến thiết cơ bản sinh trưởng và phát triển tốt theo hướng VietGAP tại Trung tâm Ứng dụng công nghệ sinh học Đồng Nai.
– Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác và xử lý ra hoa măng cụt qua thực hiện 1 mô hình xử lý ra hoa 0,5 ha và tập huấn cho 80 nhà vườn ở Đồng Nai.
Kết quả nghiên cứu:
1. Khảo sát hiện trạng canh tác cây măng cụt ở Đồng Nai. Phương pháp phỏng vấn nhà vườn bằng phiếu soạn sẵn đã được áp dụng.
Kết quả điều tra 60 hộ trồng măng cụt ở Cẩm Mỹ, Long Khánh, Xuân Lộc và Long Thành cho thấy:
+ Diện tích trồng măng cụt của tỉnh Đồng Nai ước tính khoảng 656 ha, trong đó Cẩm Mỹ chiếm diện tích nhiều nhất (40,09%), kế đến là thị xã Long Khánh (21,65%); Long Thành 15,85%. Năm 2014, sản lượng đạt khoảng 3.345 tấn.
+ Diện tích trung bình các vườn măng cụt ở Đồng Nai là 0,62 ha. Hầu hết vườn măng cụt ở Đồng Nai có tuổi còn nhỏ, trung bình tuổi vườn măng cụt là 8,23 năm. Đa số là vườn măng cụt xen canh; được trồng chủ yếu trên đất đỏ, đất xám. Nguồn nước chủ yếu là khai thác từ giếng có chất lượng tốt.
+ Về hiện trạng kỹ thuật canh tác, ghi nhận 66,67% số hộ có xử lý ra hoa, tuy nhiên biện pháp thực hiện chưa đồng bộ, kết quả xử lý ra hoa chưa cao. Hầu hết nhà vườn có bón phân vô cơ, tuy nhiên có đến 66,67% số hộ bón chưa phù hợp, cụ thể là giai đoạn bón và loại phân cho từng giai đoạn chưa đúng, lượng bón thấp và thiếu phân vi lượng. Đã ghi nhận 5 loại sâu hại và 4 loại bệnh hại trên cây măng cụt ở Đồng Nai, một số đối tượng gây hại quan trọng như sâu vẽ bùa, nhện đỏ, bọ trĩ, bệnh chảy nhựa thân cành và bệnh đốm lá. Vẫn còn nhiều nhà vườn 13,3% chưa chú trọng phòng trừ sâu bệnh, số còn lại chủ yếu dùng thuốc hóa học là chính.
+ Măng cụt phân loại dựa trên trọng lượng quả, hình thức quả và tỷ lệ quả bị sượng là chính. Tỷ lệ quả bị sượng trong sản xuất đại trà hiện nay ước tính trên 30%, do vậy nghiên cứu và chuyển giao quy trình canh tác nhằm giảm tỷ lệ quả bị sượng là rất cần thiết.
+ Kết quả điều tra tìm hiểu nguyên nhân măng cụt khó ra hoa cho thấy có một số nguyên nhân như: tuổi cây và tuổi lá, số đợt lá hình thành trong năm, chế độ phân bón, điều kiện nhiệt độ thấp, cần giai đoạn khô hạn để phân hóa mầm hoa và cần tác động chế phẩm xử lý ra hoa để hỗ trợ.
+ Kết quả điều tra tìm hiểu nguyên nhân măng cụt bị sượng quả cho thấy có một số nguyên nhân như: chế độ phân bón, chế độ nước tưới và mưa, các biện pháp làm kích thích cây ra đọt non.
2. Nghiên cứu xử lý ra hoa sớm vụ. Năm thí nghiệm và một mô hình đã được thực hiện trên vườn măng cụt 12 năm tuổi trên đất đỏ.
+ Thí nghiệm 1 nhằm mục đích xác định hóa chất phun để kích thích cây ra lá mới, được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 4 nghiệm thức phun hóa chất sau thu hoạch để kích thích cây ra lá mới là: phun nước làm đối chứng; BAP (20 ppm); GA3 (50 ppm) và Urea (1%). Kết quả cho thấy phun BAP (20 ppm) hoặc GA3 (50 ppm) hoặc Urea (1%) hình thành được 3 đợt lá mới trong vụ so với đối chứng chỉ hình thành 2 đợt lá mới trong vụ, tỷ số C/N trong chồi thuần thục và số hoa hình thành cao hơn có ý nghĩa so với đối chứng.
+ Thí nghiệm 2 nhằm mục đích xác định tuổi lá phù hợp của đợt lá mới thứ 3 để tạo khô hạn thúc đẩy phân hóa mầm hoa măng cụt, được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 5 nghiệm thức là: (1) tạo khô hạn khi lá mới hình thành đợt 3 đạt 20 ngày tuổi; (2) lá mới đạt 30 ngày tuổi; (3) lá mới đạt 40 ngày tuổi; (4) lá mới đạt 50 ngày tuổi; (5) lá mới đạt 60 ngày tuổi. Kết quả cho thấy tuổi lá của đợt lá mới thứ 3 phù hợp để tạo khô hạn thúc đẩy phân hóa mầm hoa cho măng cụt là 40 ngày tuổi. Xử lý sớm hơn làm cho tỷ lệ ra hoa thấp, năng suất thấp; xử lý muộn hơn làm kéo dài thời gian của vụ dẫn đến không đạt mục đích ra hoa sớm.
+ Thí nghiệm 3 nhằm mục đích xác định hóa chất phun lá để thúc đẩy phân hóa mầm hoa măng cụt, được bố trí theo kiểu lô phụ, khối hoàn toàn ngẫu nhiên, lô chính là 4 khoảng thời gian ngưng tưới nước để thúc đẩy phân hóa mầm hoa (tưới 3 ngày/ lần làm đối chứng; ngưng tưới 20 ngày; ngưng tưới 40 ngày và ngưng tưới 60 ngày), lô phụ là 5 loại hóa chất phun lá để thúc đẩy phân hóa mầm hoa (phun nước làm đối chứng; Paclobutrazol 1.000 ppm; MKP 0,5%; Ethephon 200 ppm và KClO3 1.000 ppm). Kết quả cho thấy phun Paclobutrazol (1.000 ppm) kết hợp ngưng tưới 40 ngày có hiệu quả tốt nhất giúp măng cụt ra hoa sớm hơn so với đối chứng 53 ngày, thu hoạch sớm hơn 58,34 ngày, tăng số hoa hình thành 29,06%, năng suất tăng 369,72% và tỷ lệ quả bị sượng giảm từ 28,67% xuống còn 9,33%.
+ Thí nghiệm 4 nhằm mục đích xác định hóa chất tưới gốc để thúc đẩy phân hóa mầm hoa măng cụt, được bố trí theo kiểu lô phụ, khối hoàn toàn ngẫu nhiên, lô chính là 4 khoảng thời gian ngưng tưới nước để thúc đẩy phân hóa mầm hoa (tưới 3 ngày/ lần làm đối chứng; ngưng tưới 20 ngày; ngưng tưới 40 ngày và ngưng tưới 60 ngày), lô phụ là một số hóa chất tưới gốc để thúc đẩy phân hóa mầm hoa (tưới nước làm đối chứng; Paclobutrazol 1,0 g a.i./m ĐKT; Paclobutrazol 1,5 g a.i./m ĐKT; Paclobutrazol 2,0 g a.i./m ĐKT; KClO3 20 g a.i./m ĐKT; KClO3 30 g a.i./m ĐKT và KClO3 40 g a.i./m ĐKT). Kết quả cho thấy tưới Paclobutrazol 1,5 g a.i./m ĐKT kết hợp ngưng tưới nước 40 ngày có hiệu quả tốt nhất giúp măng cụt ra hoa sớm hơn so với đối chứng 44,3 ngày, thu hoạch sớm hơn 57,67 ngày, tăng số hoa hình thành 144,24%, năng suất tăng 511,71% và tỷ lệ quả bị sượng giảm từ 34,0% xuống còn 14,3%, ít gây hư hại rễ. Tưới gốc KClO3 cho số hoa hình thành thấp hơn so với Paclobutrazol. Ngoài ra, KClO3 ở liều lượng 30 hoặc 40g a.i./m đường kính tán làm tăng tỷ lệ rễ non bị chết lên đến 28,0%; 31,3%.
+ Thí nghiệm 5 nhằm mục đích xác định nồng độ KNO3 phù hợp phun sau tác động hóa chất phân hóa mầm hoa để kích thích ra hoa, được bố trí theo kiểu lô phụ, khối hoàn toàn ngẫu nhiên, lô chính là 5 loại loại hóa chất phun lá hoặc tưới gốc để thúc đẩy phân hóa mầm hoa (không tác động hóa chất làm đối chứng; tưới PBZ 1,5 g a.i./m ĐKT; phun KClO3 1.000 ppm; phun MKP 0,5% và phun Ethephon 200 ppm), lô phụ là 4 nồng độ phun KNO3 để kích thích cây ra hoa (phun nước không có KNO3 làm đối chứng; KNO3 0,5%; KNO3 1,0% và KNO3 1,5%). Kết quả cho thấy tưới Paclobutrazol 1,5 g a.i./m ĐKT để thúc đẩy phân hóa mầm hoa, sau đó phun KNO3 (1%) để kích thích ra hoa có hiệu quả tốt nhất giúp măng cụt ra hoa sớm hơn so với đối chứng 53,66 ngày, thu hoạch sớm hơn 43,66 ngày, tăng số hoa hình thành 83,46%, năng suất tăng 27,18% và tỷ lệ quả bị sượng giảm từ 23,64% xuống còn 9,8%.
+ Mô hình xử lý ra hoa sớm được bố trí thành 2 lô (lô tác động kỹ thuật 5.000 m2 và lô đối chứng canh tác theo nông dân 5.000 m2). Mỗi lô chọn 35 cây để theo dõi. Ở lô tác động kỹ thuật, xử lý ra hoa sớm gồm 3 bước: (1) phun BAP (20 ppm) để kích thích ra lá mới; (2) tưới Paclobutrazol (1,5 g a.i./m ĐKT) kết hợp ngưng tưới nước 40 ngày để thúc đẩy phân hóa mầm hoa và (3) phun KNO3 (1%) kết hợp tưới nước trở lại để kích thích ra hoa. Kết quả cho thấy so với lô đối chứng thì ở lô tác động kỹ thuật, măng cụt ra hoa sớm hơn 58,57 ngày; thu hoạch sớm hơn 55,71 ngày (kết thúc thu hoạch vào 28/5 trước mùa mưa), tăng số hoa hình thành 29,71%, năng suất tăng 9,24% và tỷ lệ quả bị sượng giảm từ 21,45% xuống còn 13,13%. Hiệu quả kinh tế xử lý ra hoa sớm tăng so với đối chứng (lợi nhuận tăng thêm là 124,79 triệu đồng/ ha/ năm và tỷ số lợi ích chi phí biên đạt 10,47).
3. Nghiên cứu khắc phục sượng quả măng cụt. Hai thí nghiệm đã được thực hiện trên vườn măng cụt 12 năm tuổi trên đất đỏ
+ Thí nghiệm 1 nhằm mục đích xác định loại phân bón gốc bón tăng cường trong giai đoạn cây mang quả để giảm tỷ lệ quả bị sượng, được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 5 nghiệm thức là: (1) không bón tăng cường là đối chứng; (2) bón tăng cường CaO 1kg/ cây; (3) Ca(NO3)2 1kg/ cây; (4) K2SO4 (1kg/ cây); (5) KCl 1kg/ cây. Kết quả cho thấy K2SO4 hoặc KCl làm giảm tỷ lệ quả bị sượng rất có ý nghĩa so với đối chứng. CaO hoặc Ca(NO3)2 làm hạn chế tỷ lệ quả bị xì mủ ngoài.
+ Thí nghiệm 2 nhằm mục đích xác định loại phân bón lá phun trong giai đoạn cây mang quả để giảm tỷ lệ quả bị sượng, được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD), 4 nghiệm thức là: (1) phân bón lá Super Trung Vi Lượng làm đối chứng); (2) phân bón lá Humix; (3) Phân bón lá Calmax; (4) phân bón lá Growmore 6-30-30. Kết quả cho thấy Humix hoặc Growmore 6-30-30 giúp làm giảm tỷ lệ quả bị sượng; Calmax làm giảm tỷ lệ quả bị xì mủ ngoài so với đối chứng.
4. Hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho măng cụt Đồng Nai
+ Đã hoàn thành hồ sơ đăng ký nhãn hiệu “măng cụt Xuân Lập” cho Tổ hợp tác cây Sầu riêng và Măng cụt Xuân Lập (ấp Phú Mỹ, xã Xuân Lập, thị xã Long Khánh). Hồ sơ đã được Cục Sở hữu trí tuệ chấp nhận ngày 19/5/2016. Mã vạch của nhãn hiệu là: 4-2016-08599.
+ Đã xây dựng xong website và bàn giao sử dụng cho Tổ hợp tác Cây sầu riêng và măng cụt Xuân Lập từ tháng 4 năm 2015. Địa chỉ của website: http://sauriengmangcutxuanlap.com/mang-cut/.
+ Mô hình canh tác măng cụt thời kỳ kiến thiết cơ bản theo hướng VietGAP tại Trung tâm Ứng dụng công nghệ sinh học Đồng Nai: 2 ha măng cụt được trồng xen với cà phê đã được chăm sóc sinh trưởng và phát triển tốt.
5. Tập huấn kỹ thuật canh tác và xử lý ra hoa cho măng cụt. Đã tổ chức xong 2 lớp tập huấn cho 80 nhà vườn về kỹ thuật kỹ thuật canh tác và xử lý ra hoa cho măng cụt tại xã Nhân Nghĩa (huyện Cẩm Mỹ) và xã Xuân Lập (thị xã Long Khánh). Chất lượng chương trình tập huấn được đa số nông dân đánh giá tốt, không có phiếu đánh giá kém.