Xây dựng cơ sở dữ liệu ngành NN-MT: ‘Đúng – Đủ – Sạch – Sống”

Cơ sở dữ liệu ngành nông nghiệp và môi trường được xây dựng gắn với giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo “đúng – đủ – sạch – sống”.

Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị nhấn mạnh vai trò của chuyển đổi số và việc xây dựng, khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu (CSDL) trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Liên quan tới vấn đề chuyển đổi số của ngành nông nghiệp và môi trường, Báo Nông nghiệp và Môi trường có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Bảo Trung, Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).

CSDL được kết nối, chia sẻ với các bộ, ngành, địa phương

Ông đánh giá thế nào về mức độ sẵn sàng hạ tầng số của ngành hiện nay?

Hạ tầng số chính là nền móng để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, như được xác định tại Quyết định số 1132/QĐ-TTg ngày 09/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ. Văn bản này nêu rõ 4 trụ cột của hạ tầng số gồm viễn thông – internet, dữ liệu, hạ tầng vật lý – số và hạ tầng tiện ích số. Trong ngành nông nghiệp và môi trường, hạ tầng số không chỉ là yếu tố hỗ trợ mà còn là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa mục tiêu số hóa toàn diện.

Ông Nguyễn Bảo Trung – Phó Cục trưởng Cục Chuyển đổi số (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Ảnh: T. Giang.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (trước đây là Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã ưu tiên đầu tư, nâng cấp hạ tầng số, đặc biệt là các trung tâm dữ liệu. Đến nay, 5 trung tâm dữ liệu đã được đưa vào vận hành ổn định tại trụ sở Bộ, Cục Chuyển đổi số, Cục Khí tượng Thủy văn, Trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long (đặt tại TP Cần Thơ) và TP. HCM. Các trung tâm này đã được nâng cấp về khả năng lưu trữ, xử lý, đảm bảo an toàn thông tin, sẵn sàng phục vụ quá trình chuyển đổi số sâu rộng trong toàn ngành.

Hiện nay, ngành đã có những cơ sở dữ liệu trọng yếu nào được hoàn thiện? Chúng được tích hợp và chia sẻ như thế nào giữa các đơn vị, địa phương và với Chính phủ số, thưa ông?

Tổng số CSDL dùng chung của ngành nông nghiệp và môi trường là 98 CSDL, trong đó có nhiều cơ sở dữ liệu trọng yếu như đất đai, môi trường, khí tượng thủy văn, nền địa lý quốc gia, nghề cá… Hiện tại, các CSDL đã từng bước được xây dựng, đưa vào vận hành, kết nối, chia sẻ với các bộ, ngành, địa phương.

Đặc biệt, 2 CSDL trọng điểm là CSDL quốc gia về đất đai và CSDL nghề cá quốc gia đã được kết nối với CSDL quốc gia về dân cư, hệ thống của các bộ ngành và địa phương. Việc này góp phần quan trọng vào chỉ đạo điều hành và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp.

Trong đó, đối với CSDL đất đai, đến nay, tại trung ương đã xây dựng xong 4 dữ liệu thành phần gồm: Dữ liệu về hiện trạng sử dụng đất cấp vùng và cả nước; dữ liệu về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia; dữ liệu về khung giá đất; dữ liệu về điều tra cơ bản về đất đai cấp vùng và cả nước.

Về phía các địa phương, 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã và đang xây dựng, hoàn thiện CSDL đất đai, trong đó 495/696 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành CSDL địa chính với hơn 49,7 triệu thửa đất đưa vào vận hành phục vụ công tác quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết thủ tục hành chính về đất đai cho người dân, doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, 696/696 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành CSDL thống kê, kiểm kê đất đai (từ kỳ kiểm kê 2019) và đưa vào vận hành thống nhất từ trung ương đến địa phương; 325/696 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành xây dựng CSDL quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; 300/696 đơn vị cấp huyện đã hoàn thành xây dựng CSDL giá đất.

Hiện nay, Bộ đang tích cực phối hợp với các địa phương, thực hiện đồng bộ CSDL đất đai về Bộ, kết nối, xác thực với CSDL quốc gia về dân cư, hoàn thành tháng 6/2025, tiến tới đồng bộ với Trung tâm Dữ liệu quốc gia vào tháng 8/2025 theo đúng lộ trình của Chỉ thị 07/CT-TTg.

Trung tâm Dữ liệu vùng Đồng bằng sông Cửu Long tại thành phố Cần Thơ. Ảnh: Lê Hùng.

Cục đã và đang triển khai những giải pháp nào để xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin và CSDL đảm bảo “đúng – đủ – sạch – sống”?

Chúng tôi đã cụ thể hóa các định hướng từ Nghị quyết 57, Nghị quyết 71 và Chương trình Chuyển đổi số quốc gia thành các nhóm giải pháp thiết thực, trọng tâm gồm: Thứ nhất, đầu tư hạ tầng số hiện đại, áp dụng công nghệ điện toán đám mây, kiến trúc hợp nhất, bảo đảm khả năng kết nối – chia sẻ trong toàn ngành và với Chính phủ điện tử, các bộ ngành và địa phương.

Thứ hai, chuyển đổi số dựa hoàn toàn trên dữ liệu, do đó nhiệm vụ phát triển dữ liệu bảo đảm “đúng – đủ – sạch – sống” là vô cùng quan trọng. Do đó, phát triển dữ liệu đã được thực hiện theo các nguyên tắc sau: Xây dựng và ban hành đầy đủ các kiến trúc (dữ liệu); danh mục CSDL, dữ liệu lớn, dữ liệu mở; tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định kỹ thuật về nội dung, cấu trúc, thông điệp chia sẻ dữ liệu làm cơ sở pháp lý, tiền đề triển khai các nhiệm vụ tiếp theo về phát triển dữ liệu; lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên phát triển dữ liệu theo hướng là các CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành phục vụ trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính (TTHC), chỉ đạo điều hành và người dân, doanh nghiệp.

Đồng thời, ưu tiên, tập trung bố trí nguồn lực (tài chính, nhân lực) để xây dựng, phát triển dữ liệu; CSDL được xây dựng phải gắn với xây dựng, vận hành các hệ thống thông tin nghiệp vụ, chuyên ngành và giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công trực tuyến để dữ liệu luôn được “đúng – đủ – sạch – sống”.

Ngoài ra, dữ liệu được xây dựng phải được kết nối, chia sẻ, khai thác phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng, an ninh.

Thứ ba, chú trọng công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng, bảo vệ an ninh mạng theo cấp độ cho các hệ thống thông tin; triển khai đầy đủ các phương án bảo đảm an toàn thông tin mạng, bảo vệ an ninh mạng cho các hệ thống thông tin, đặc biệt là các hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia, ngành.

Gắn xây dựng CSDL với vận hành, khai thác

Theo ông có những khó khăn gì trong việc chuẩn hóa, kết nối và liên thông dữ liệu trong ngành? Làm thế nào để vượt qua những thách thức đó?

Khó khăn, vướng mắc lớn nhất hiện nay là do dữ liệu tuy đã được quan tâm phát triển, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân vẫn còn manh mún, việc chia sẻ gặp nhiều khó khăn.

Đồng thời, việc ban hành các kiến trúc dữ liệu, hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định kỹ thuật về nội dung, cấu trúc của dữ liệu để làm cơ sở cho việc chuẩn hóa, xây dựng CSDL, kết nối, chia sẻ dữ liệu chưa đầy đủ, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu.

Bên cạnh đó, dữ liệu phân cấp trung ương, địa phương, trong đó khối lượng lớn dữ liệu ở địa phương, cơ sở, nhất là đất đai trong khi nguồn lực dành cho phát triển dữ liệu, xây dựng CSDL ở các địa phương là khác nhau. Nguồn lực dành cho phát triển dữ liệu, xây dựng CSDL vẫn còn hạn chế…

Để khắc phục, Bộ xác định một số giải pháp trọng tâm như xây dựng, ban hành đồng bộ các văn bản nhằm thống nhất công tác phát triển dữ liệu, chuẩn hóa, kết nối và chia sẻ dữ liệu, kiến trúc Chính phủ số; danh mục CSDL dùng chung, chuyên ngành, dữ liệu lớn, dữ liệu mở; các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định kỹ thuật về nội dung, cấu trúc của dữ liệu.

Xác định lộ trình, danh mục CSDL ưu tiên đầu tư, xây dựng theo hướng ưu tiên các CSDL quốc gia, CSDL chuyên ngành quan trọng phục vụ trực tiếp chỉ đạo, điều hành và giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công trực tuyến.

Đặc biệt, gắn xây dựng CSDL, kết nối, chia sẻ dữ liệu với vận hành, khai thác các hệ thống thông tin chỉ đạo điều hành, chuyên môn nghiệp vụ để dữ liệu luôn “đúng – đủ – sạch – sống”.

Trân trọng cảm ơn ông!

Nguồn: Nongnghiepmoitruong.vn

Về Nguyễn Thị Loan

Check Also

Theo dõi sát, tránh mất trắng đàn cá nước lạnh khi giao mùa

Việc theo dõi và phát hiện những biểu hiện bất thường của cá nước lạnh …