Kinh tế số đang trở thành xu thế phát triển tất yếu của thế giới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đồng thời là động lực phát triển quan trọng đối với mọi quốc gia. Tại Việt Nam, lĩnh vực kinh tế đã có bước chuyển mình mạnh mẽ nhờ quy mô dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng internet cao, nền tảng hạ tầng số được cải thiện. Bài viết này phân tích thực trạng phát triển, cơ hội, thách thức, đồng thời đưa ra một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế số tại Việt Nam đến năm 2030.
Kinh tế số (digital economy) là nền kinh tế dựa trên các công nghệ kỹ thuật số, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý.
Tại Việt Nam, kinh tế số đang ngày càng trở thành trụ cột chiến lược trong tăng trưởng kinh tế, đổi mới mô hình phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Vai trò của kinh tế số được thể hiện trên nhiều khía cạnh, như: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động; tạo ra ngành nghề, thị trường và các mô hình kinh doanh mới; thúc đẩy hội nhập quốc tế và mở rộng thị trường cho doanh nghiệp; hỗ trợ phát triển nông thôn, thu hẹp khoảng cách vùng miền; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công; bảo đảm phát triển bền vững và xanh hóa nền kinh tế. Các trụ cột phát triển kinh tế số gồm: Chính phủ số, hạ tầng số, chuyển đổi số doanh nghiệp, thương mại điện tử. Bài viết khái quát thực trạng kinh tế số tại Việt Nam, chỉ ra một số thuận lợi, những tồn tại, hạn chế; đồng thời đưa ra một số khuyến nghị nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển ngành kinh tế này.
Thực trạng phát triển kinh tế số tại Việt Nam
Những năm qua, kinh tế số đã khẳng định vai trò quan trọng với những đóng góp lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Tỷ trọng của kinh tế số trong GDP cả nước tăng trưởng ổn định qua các năm. Số liệu từ Cục Thống kê cho thấy, giai đoạn 2020-2024, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong toàn bộ nền kinh tế lần lượt là 12,66%, 12,87%, 12,83%, 12,87% và 13,17%. Như vậy, trung bình tỷ trọng giá trị tăng thêm kinh tế số trong GDP giai đoạn 2020-2024 đạt khoảng 12,88%, trong đó ngành kinh tế số lõi đóng góp 7,99% (chiếm 62%), số hóa các ngành khác đóng góp 4,89% (chiếm 38%). Tỷ trọng giá trị kinh tế số tăng do các ngành được số hóa có xu hướng tăng dần theo các năm, từ 4,75% của GDP năm 2020 lên 5,01% của GDP năm 2024.
Hình 1: Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP Việt Nam giai đoạn 2020-2024
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Cục Thống kê
Năm 2024, ước tính tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP có dấu hiệu phục hồi tích cực trên cơ sở gia tăng các đơn hàng ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học. Giá trị tăng thêm của các hoạt động kinh tế số trong năm này ước đạt trên 1,5 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 62,7 tỷ USD (theo tỷ giá bình quân USD/VND năm 2024), chiếm 13,17% trong GDP. Theo giá hiện hành, quy mô kinh tế số của toàn bộ nền kinh tế năm 2024 tăng 14,1 % so với năm 2023. Trong đó các ngành kinh tế số lõi chiếm hơn 62%. Cụ thể, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học chiếm hơn 32% (tăng hơn 16% theo giá hiện hành); các ngành kinh tế số lõi khác như: bán buôn máy vi tính, thiết bị ngoại vi và phần mềm, linh kiện điện tử, viễn thông, xuất bản phần mềm, Viễn thông, Lập trình máy vi tính, cổng thông tin… chiếm khoảng 30% có xu hướng tăng (tăng gần 13% theo giá hiện hành) so với năm 2023.
Tiếp cận quy mô kinh tế số từ góc độ giá trị sản phẩm, tỷ trọng giá trị sản xuất của các hoạt động kinh tế số so với tổng giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế năm 2024 ước đạt 18,7%; nếu so với GDP của nền kinh tế thì tỷ trọng này lên tới 49,2%. Bình quân giai đoạn 2020 -2024, tỷ trọng giá trị sản xuất của các hoạt động kinh tế số so với tổng giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế ước đạt 19,6%; so với GDP của nền kinh tế thì tỷ trọng này ước đạt hơn 52,3%.
Ngoài các ngành kinh tế số lõi, một số ngành có giá trị tăng thêm kinh tế số cao có thể kể đến: Thương mại điện tử; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; Hoạt động phát thanh, truyền hình; Hoạt động dịch vụ tài chính…
Đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế số tại Việt Nam đã vượt qua 20%/năm, cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP và là quốc gia tăng trưởng kinh tế số nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Với doanh thu từ hoạt động thương mại điện tử bán lẻ đạt 25 tỷ USD, Việt Nam đứng trong top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử cao nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng thanh toán không dùng tiền mặt hàng năm cũng tăng hơn 50%, dẫn đầu khu vực Đông Nam Á.
Các yếu tố thuận lợi giúp phát triển tiềm năng kinh tế số
Nhìn chung, kinh tế số Việt Nam phát triển nhanh và mạnh mẽ nhờ nhiều yếu tố thuận lợi giúp phát huy tiềm năng phát triển kinh tế số như: Chính sách, hạ tầng, nhân lực…
Một là, động lực từ quyết tâm và chính sách mạnh mẽ của Chính phủ. Đến nay, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, khuyến khích thúc đẩy phát triển kinh tế số, bao gồm: Cung cấp nguồn lực tài chính, kỹ thuật, đào tạo nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đẩy mạnh phát triển hạ tầng số. Trong đó, điển hình phải kể đến Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Ngoài ra, Luật Dữ liệu được thông qua vào tháng 12/2024 đã thiết lập thị trường, xây dựng sàn dữ liệu và quy định về chuyển và xử lý dữ liệu xuyên biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh trực tuyến. Đáng chú ý, Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị như một mũi nhọn tháo gỡ những điểm nghẽn, giúp chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số hóa, tập trung vào giá trị gia tăng từ dữ liệu và công nghệ.
Hai là, hạ tầng số ngày càng hoàn thiện. Mạng lưới hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin và internet phát triển nhanh, bao phủ rộng khắp và hiện đại; mật độ người dùng cao. Từ năm 2022, Việt Nam đã khởi động nghiên cứu 6G, bên cạnh việc phân bổ tần số 5G và phát triển mạng 5G toàn quốc. Ban chỉ đạo 6G cũng được thành lập và Việt Nam là một trong 10 nước đầu tiên trên thế giới có ban chỉ đạo này; mục tiêu đặt ra là tần số 6G có thể được cấp phép vào năm 2028, trước khi tiến tới thương mại hóa.
Ba là, nguồn nhân lực trẻ và năng động. Tính đến cuối năm 2024, dân số trung bình của Việt Nam đạt 101,3 triệu người, đứng thứ 15 thế giới, thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 53,0 triệu người, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, với tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 28,3%. Tỷ lệ người dân sử dụng Internet cao (hơn 77% dân số), tỷ lệ sử dụng smartphone đạt khoảng 68% (năm 2024), tạo thuận lợi cho việc phổ cập các dịch vụ số. Đây cũng là một lợi thế của Việt Nam, bởi lực lượng lao động trẻ, năng động, đã qua đào tạo và có khả năng thích nghi cao với công nghệ mới. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chú trọng đến cách chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế số.
Bốn là, sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp công nghệ. Việt Nam có một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông đang phát triển nhanh chóng. Các doanh nghiệp cũng được Chính phủ chú trọng hỗ trợ thông qua việc cung cấp nguồn lực tài chính mạnh mẽ vào phát triển hạ tầng kỹ thuật số, các trung tâm nghiên cứu và phát triển. Nhờ đó, doanh nghiệp công nghệ số ngày càng năng động, sáng tạo, trở thành kỳ lân, có ảnh hưởng lớn như: MoMo, Tiki, VNG…, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển kinh tế số. Thêm vào đó, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam ngày càng phong phú với sự tham gia của các trường đại học, viện nghiên cứu, quỹ đầu tư trong và ngoài nước.
Một số tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, khoảng cách chuyển đổi số giữa các khu vực và lĩnh vực. Phát triển kinh tế số tại Việt Nam đứng trước thách thức không nhỏ do khoảng cách chuyển đổi số rõ rệt giữa các khu vực địa lý (thành thị – nông thôn) và giữa các loại hình doanh nghiệp (lớn – nhỏ/siêu nhỏ). Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2021 của Cục Thống kê cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số ở thành thị cao hơn rõ rệt so với nông thôn và miền núi. Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, có trên 70% doanh nghiệp sử dụng phần mềm quản trị doanh nghiệp, kế toán, bán hàng; trong khi đó, tỷ lệ này tại Tây Bắc, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long chỉ khoảng 25-35%.
Thứ hai, thách thức về năng lực thể chế và an toàn, an ninh mạng. Phát triển kinh tế số không chỉ là vấn đề về công nghệ hay hạ tầng, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về năng lực thể chế và đảm bảo an toàn, an ninh mạng. Đây là hai trụ cột quan trọng, tạo nền tảng pháp lý, môi trường tin cậy để thúc đẩy số hóa bền vững, toàn diện. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta chưa hoàn thiện, còn chậm cập nhật theo tình hình thực tiễn số thay đổi nhanh chóng. Một số lĩnh vực mới như: Fintech, AI, Big Data, Blockchain… đang phát triển nhanh nhưng chưa có khuôn khổ thử nghiệm chính thức. Trong khi đó, theo Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông), năm 2024, có tới 16.838 cuộc tấn công mạng gây sự cố vào hệ thống tại Việt Nam, tăng 9,5% so với năm 2023. Trong đó, có hơn 60% là tấn công lừa đảo và chiếm đoạt tài khoản trên các nền tảng số. Báo cáo năm 2023 của Công ty An ninh mạng (BKAV) cho biết, Việt Nam mất khoảng 21 nghìn tỷ đồng/năm do mã độc tống tiền (ransomware) và lộ lọt dữ liệu; hơn 75% doanh nghiệp nhỏ không triển khai hệ thống bảo mật mạng cấp doanh nghiệp, mà chỉ sử dụng phần mềm miễn phí.
Thứ ba, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Tình trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực thuộc kinh tế số vẫn tồn tại; việc đào tạo và thu hút nhân tài với kiến thức chuyên môn cao và khả năng sáng tạo vẫn còn là thách thức lớn. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, bình quân mỗi năm của giai đoạn 2025-2030, Việt Nam cần khoảng 150.000 lao động công nghệ thông tin, nhưng đến nay mới chỉ đáp ứng được khoảng 60-70% nhu cầu. Tình trạng “chảy máu chất xám” trong lĩnh vực công nghệ đang là vấn đề nổi cộm.
Giải pháp
Trong tương lai, kinh tế số được dự báo sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính, thay thế dần mô hình tăng trưởng dựa trên vốn đầu tư và tài nguyên. Trong đó, các lĩnh vực tiềm năng lớn của kinh tế số vẫn tập trung vào: Thương mại điện tử và logistics thông minh; tài chính số (fintech, ngân hàng số); nông nghiệp số và công nghiệp 4.0; AI, Big Data, Blockchain…
Theo mục tiêu Chính phủ đặt ra, Việt Nam phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng kinh tế số đạt 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; Tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 20%; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng nền tảng hợp đồng điện tử đạt 100%; tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên 70%; tỷ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng lao động đạt trên 3%.
Để đạt được những mục tiêu đó thì việc hoàn thiện thể chế; phát triển đồng bộ hạ tầng số; đẩy mạnh đào tạo và phát triển nhân lực; thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số; tích cực đổi mới sáng tạo và phát triển hệ sinh thái số… là những giải pháp thực sự cần thiết. Với quyết tâm cao và sự chung tay của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, kinh tế số Việt Nam hoàn toàn có khả năng vươn lên mạnh mẽ, đạt được các mục tiêu kỳ vọng vào năm 2030.
Cục TT,TK