Nước thải của các nhà phân tích hóa học chứa nhiều chất ô nhiễm nhiễm độc NH, các axit vô cơ H2SO4, H3PO4, các muối tan, chất thải độc ở dạng cặn xà phòng. Đặc biệt, nước thải nhà sản xuất phân bón hóa học còn chứa lượng lớn các chất dinh dưỡng Ni tơ (N), Phốt pho (P). Loại chất này nồng độ lớn có thể gây ra hiện tượng dư thừa chất dinh dưỡng trong các sông hồ, ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Để xử lý nguồn nước thải này sao cho đạt tiêu chuẩn môi trường, hầu hết các nhà đang ứng dụng công nghệ hóa lý để xử lý lượng nước thải nói trên, đặc biệt là nguồn nước thải chứa nhiều N và P. Công nghệ Điều này doanh nghiệp phải tiêu tốn khối lượng lớn chất hóa học và năng lượng để xử lý, không gây ô nhiễm thứ cấp.
Phân chia NPK được sản xuất từ struvite
Khi đó, dự trữ lượng P trong các loại mỏ để sản xuất phân lân đang ngày càng giảm dần. Do đó, việc giảm thiểu chất hóa học để xử lý nước thải và thu hồi các chất dinh dưỡng N, P từ nước thải luôn là công nghệ cho các nhà môi trường và doanh nghiệp hướng dẫn đến. Tuy nhiên, trong nước hiện chưa có nghiên cứu đầy đủ về công nghệ thu hồi N và P từ các nhà sản xuất phân tích phân tích, cũng như nghiên cứu sử dụng các sản phẩm sau thu hồi để sản xuất phân tích phục vụ sản phẩm xuất nông nghiệp. Vi thế, nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh đã thu hồi struvite (MgNH4PO4.6H2O) từ nước thải nhà phân tích để sản xuất phân bón tan chậm dùng trong nông nghiệp .
Nguồn nước thải được thu gom tại các nhà phân tích Bình Điền, Hà Lan, Đạm Cà Mau để phân tích, đánh giá hàm lượng các chất có trong nước thải như N, P2O5, K2O, pH. Từ đó, tác giả đưa ra những thông số để thực hiện thu hồi Struvite (Magie amoni photphat hydrat – MgNH4PO4.6H2O) từ nước thải có nồng độ N và P cao.
Theo PGS.TS Lê Minh Viễn, Chủ nhiệm đề tài, struvite là một tình trạng có thể thường gặp trong tự nhiên, ở dạng không tan (Rất ít tan). Struvite tan ít trong nước và dịch chuyển nên struvite giải phóng chậm đã tạo ra nguồn N, P và Mg hiệu quả cho cây trồng bồi qua lá hay đất. Việc sử dụng phân tích từ struvite tan chậm có thể giảm từ 20-30%, thậm chí nhiều hơn, do đó phân tích thông thường vẫn có hiệu suất tương thích. Kết quả nghiên cứu ở phòng thí nghiệm đã tìm thấy các thông số công nghệ như pH, tỷ lệ mol Mg (Magie)/P, N/P, thời gian phản ứng ảnh hưởng đến hiệu suất kết thúc tủ struvite. Trong đó, thông số ảnh hưởng mạnh nhất là pH, tỷ lệ mol Mg/P, N/P.
Với thông số công nghệ để đạt hiệu suất thu hồi trên 80%, thì tỷ lệ mol Mg/P=1,0 và N/P= 1,2; pH=8,3, thời gian là 60 phút ở môi trường nhiệt độ. Bằng phương pháp kết tủa, sản phẩm thu được là dạng bột có kích thước hạt từ 13-22 micro mét, hàm lượng dinh dưỡng (Mg, N và P) phù hợp để phân hủy chậm phục vụ sản xuất nông nghiệp .
Công nghệ hóa học để xử lý lượng nước thải của nhà phân tích thường phải sử dụng lượng chất hóa học lớn (NaOH, HCL), do đó không thể tạo ra bất kỳ sản phẩm phụ nào, thậm chí gây ô nhiễm môi trường thứ cấp. Với phương pháp kết tủa, nhóm tác giả sử dụng struvite, tận dụng để sản xuất phân tích. Vì vậy, với phân đoạn thương mại, phân đoạn từ struvite tan chậm hơn khoảng gần 20% sau 60 ngày.
Theo: vista.gov.vn