Y tế cẩn thận được đặc biệt bởi lượng albumin tăng dần và nhu cầu lọc (GFR – Tốc độ lọc cầu thận) giảm dần. Tuy nhiên, vào thời điểm albumin thuốc xuất hiện thì khoảng 30% bệnh nhân có bệnh lý cầu thận đã ở giai đoạn tiến triển đáng kể.2,3Mặt khác, một số bệnh nhân có albumin cườngthoái lui về bình thường trong khi tốc độ lọc cầu thận trọng (GFR) vẫn tiếp tục giảm. Bờ viền đó có khoảng 20 – 40% bệnh nhân mắc bệnh cẩn thận đường không theo mô hình cổ điển, họ không có albumin tăng cường và không có chứng minh rừng, cho thấy protein tăng cường không phải lúc nào cũng xuất hiện trước đó khi mất chức năng bảo vệ ở bệnh nhân tiểu đường. Phác đồ điều trị hầu như chỉ bắt đầu khi có albumin cao, nên việc không có albumin mạnh có thể gây khó khăn cho việc xác định thời điểm thích hợp để bắt đầu các can thiệp điều trị chuyên sâu. Vì vậy, hiện tại chúng ta cần xác định những dấu ấn sinh học ngoài albumin dựa trên cơ chế bệnh hiểm nghèo đường.
Hiện nay, việc sẵn sàng lọc hệ thống mã vạch được thực hiện cho tất cả các bệnh bệnh tiểu đường loại 2 khi được dự đoán và hàng năm sau đó bằng cách đánh giá chức năng thận trọng và tăng cường microalbumin. Trong khi bệnh loại 1 được sàng lọc sau 5 năm được chẩn đoán bệnh bệnh. Nếu thử nghiệm không có microalbumin tăng cường thì việc sẵn sàng lọc nên được lặp lại hàng năm đối với bệnh tiểu đường loại 1 và 2. Ngược lại, bệnh nhân có hiện tượng tăng albumin vi thể hoặc đại thể đều nên được đánh giá các biểu hiện bệnh lý đi kèm như bệnh lý sa mạc.
Việc mong đợi sớm là rất quan trọng để giải quyết rủi ro nhằm cải thiện năng lượng và làm chậm tiến trình phát triển của Bệnh cẩn thận. Các thử nghiệm dự đoán thông tin thường có các chế độ xác định hạn chế nhất, thường dẫn đến tốc độ dự đoán. Việc tiếp tục tìm kiếm các dấu ấn sinh học mới trong nước tiểu và huyết thanh, dựa trên protein và chất chuyển hóa, đã cải thiện sự hiểu biết về sinh lý bệnh và cơ chế liên quan đến sự phát triển của bệnh thận
Mặc dù vậy, sự phát triển của học tập đã được đưa ra ở thời điểm mà các chiến lược có thể tiến triển ở mức độ cá nhân hóa với mức độ ưu tiên mục tiêu của các hộp điều trị giá trị. Tuy nhiên, trong trường hợp dấu ấn sinh học cho bệnh lâm sàng, phần lớn thông tin có sẵn đều dựa trên các nghiên cứu về động vật, tế bào và in vitro, và kết quả của các nghiên cứu trên quần thể lớn vẫn còn chế độ hạn chế và gây tranh cãi. Một yếu tố quan trọng khác cần xem xét là hiệu quả chi phí của việc sử dụng dấu ấn sinh học này và sự sẵn có của chúng. Điều quan trọng cần lưu ý là biểu tượng kỳ vọng của các dấu ấn sinh học này có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác mà không nhất thiết phải chỉ ra sự hiện diện của chấn thương thận cấp tính. Do đó, cần phải xem xét tác dụng của các bệnh đi kèm đối với các dấu ấn sinh học này và các giới hạn ngưỡng được xuất ra để dự đoán, theo dõi và lượng lần đầu tiên có thể cần được đánh giá lại.
Một số dấu ấn sinh học phải trội hơn về tiềm năng trong đánh giá giá sớm tinh tế cầu thận đã được phát hiện từ các phòng nghiên cứu sẵn có. Trong đó, có những dấu ấn sinh học có khả năng dự đoán sớm nguy hiểm đường và một số ít có ý nghĩa trong việc dự đoán sự suy giảm chức năng thận trọng như CysC, Gas6, βTP, trong phát hiện sớm tổng kinh Ống thận NGAL, KIM-1, CCL5, Phản ứng trạng thái oxy hóa ánh sáng có miR-130b. Đến hiện tại, dấu ấn này đã có nhiều nghiên cứu chứng minh nguồn gốc cũng như chuyển hóa và tiết lộ của chúng, cho thấy kết quả tích cực hứa hẹn bằng những thiết kế nghiên cứu tập đoàn và mẫu lớn có độ tin cậy cao, CCL5 và miR-130b là các dấu ấn mới nổi theo xu hướng tối ưu can thiệp và điều chỉnh cá nhân hóa. Còn lại, một số dấu ấn đánh giá về tình trạng viêm như MCP-1, PKM2 mặc dù cho kết quả khá ấn tượng nhưng vẫn chưa có nhiều kết quả thực sự thuyết phục khi chỉ mới xuất bản phát hiện điểm từ nghiên cứu thực nghiệm trên vật thể.
Việc áp dụng các dấu ấn sinh học này vẫn tồn tại ở những hạn chế bởi nhiều yếu tố khác nhau như sự có sẵn các xét nghiệm, chi phí, sự khác biệt về kỹ thuật và kết quả từ thử nghiệm đến thực tế lâm sàng cũng sẵn sàng như thiếu sự chấp thuận và khuyến khích của các cơ quan quản lý quốc gia và quốc tế.
Hiện tại, microalbumin đã được tăng cường vẫn là dấu hiệu sớm của bệnh đái tháo đường. Tuy nhiên, với sự cải thiện hiểu biết về bệnh sinh học, siêu thương tổn có thể xảy ra ngay cả khi không tăng microalbumin. Vì vậy, việc đánh giá sự phát triển của bệnh cẩn thận không thể chỉ dựa vào lượng albumin và creatinine. Nỗ lực xác định các dấu ấn sinh học mới khác nhau có vẻ thực sự cần thiết. Cho dù các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều tiềm năng dấu ấn sinh học mới. Tuy nhiên, mỗi dấu ấn sinh học có vai trò khác nhau trong việc xác định sớm bệnh y tế hoặc dự đoán sự phát triển của nó, một số ít trong số chúng có hữu ích nhưng một số cũng rất cần phải cân nhắc. Vì thế, những dấu ấn sinh học mới này cần được đảm bảo xác thực để nhận thêm về giá trị của các nghiên cứu với quy mô lớn liên quan đến quần thể bệnh đái tháo đường trước khi áp dụng lâm sàng.
Theo: vista.gov.vn