Việc chọn giống cà phê tốt, có địa chỉ rõ ràng, phù hợp từng vùng trồng là yếu tố quyết định năng suất, chất lượng và hiệu quả bền vững cho nông dân.
Trong bối cảnh ngành cà phê Việt Nam đang đẩy mạnh chương trình tái canh nhằm thay thế vườn cây già cỗi, lựa chọn giống đúng, có chất lượng tốt, địa chỉ rõ ràng và phù hợp là yếu tố then chốt quyết định thành công. Giống tốt không chỉ cho năng suất cao, chất lượng ổn định mà còn có khả năng thích ứng tốt với biến đổi khí hậu và kháng sâu bệnh.
Thạc sĩ Đinh Thị Tiếu Oanh (trái) – Trưởng bộ môn Cây công nghiệp (Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên) hướng dẫn cách chọn giống cà phê phù hợp cho nông dân. Ảnh: Phạm Hoài.
Thạc sĩ Đinh Thị Tiếu Oanh, Trưởng bộ môn Cây công nghiệp – Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) cho biết, đến nay WASI đã chọn tạo và công nhận chính thức 9 giống cà phê vối dòng vô tính (TR4 đến TR13), giống lai thực sinh TRS1, các giống chín muộn TR14, TR15 và các giống đặc cách như xanh lùn, cà phê dây. Ngoài ra, với cà phê chè, các giống TN1, TN2, TN6, TN7, TN9 và THA1 cũng đã được nghiên cứu, thử nghiệm và đưa vào sản xuất, đặc biệt phù hợp với vùng cà phê chè trọng điểm tại Lâm Đồng.
Theo bà Oanh, nông dân cần lựa chọn giống cà phê dựa trên thời gian chín, năng suất, khả năng kháng bệnh và điều kiện canh tác cụ thể. Nhóm giống cà phê vối chín trung bình như TR4, TR5, TR7, TR8, TR13 có thời gian chín từ đầu tháng 11 đến giữa tháng 12, năng suất ổn định, kháng bệnh tốt, phù hợp với điều kiện thâm canh. Nhóm giống chín trung bình – muộn như TR9, TR11, TR12 có thời gian chín kéo dài đến cuối tháng 12, hạt to, thích hợp với canh tác quy mô lớn, thuận tiện cho thu hoạch và chế biến.
Đặc biệt, nhóm giống chín muộn như TR6, TR14, TR15, xanh lùn và cà phê dây có thời gian thu hoạch từ tháng 1 đến tháng 2 năm sau. Các giống này có ưu điểm nổi bật là tiết kiệm một đợt tưới nước đầu mùa, giúp chuyển dịch mùa vụ thu hoạch, giảm áp lực lao động trong mùa cao điểm. Những giống này có năng suất cao, chất lượng hạt tốt, nhiều giống đạt trên 80 điểm theo tiêu chuẩn SCA, phù hợp với yêu cầu thị trường xuất khẩu chất lượng cao.
Giống thực sinh TRS1 là kết quả lai giữa các dòng TR4, TR9, TR11, TR12 và được nhân giống bằng hạt. Đây là lựa chọn hiệu quả cho tái canh đại trà với năng suất trung bình trên 5 tấn nhân/ha, khối lượng 100 nhân đạt 20g, kháng bệnh gỉ sắt tốt, phù hợp cả cho mô hình nông hộ lẫn doanh nghiệp.
Theo Thạc sĩ Đinh Thị Tiếu Oanh, giống thực sinh TRS1 là lựa chọn hiệu quả cho tái canh đại trà với năng suất trung bình trên 5 tấn nhân/ha. Ảnh: Phạm Hoài.
Với cà phê chè, giống TN1 và TN2 được đánh giá cao về khả năng kháng gỉ sắt, năng suất đạt 4–5 tấn nhân/ha, hạt thuôn dài, tỷ lệ tươi/nhân thấp. Các giống TN6, TN7, TN9 có tỷ lệ hạt sàng 16 trên 80%, năng suất cao hơn Catimor truyền thống từ 15–60%. Giống THA1 cũng là một lựa chọn tốt khi vừa có năng suất ổn định, hạt lớn, kháng bệnh tốt và có thể nhân giống bằng hạt thuần.
Bên cạnh việc chọn giống đúng, bà Đinh Thị Tiếu Oanh đặc biệt lưu ý bà con cần chú ý đến nguồn gốc giống. Cây giống phải được sản xuất bởi các đơn vị được cấp phép như Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên hoặc các đối tác uy tín. Cây giống đạt chuẩn cần có chiều cao từ 25–30 cm, thân to trên 0,4 cm, tối thiểu 5 cặp lá và được ươm trong bầu đất sạch kích thước không nhỏ hơn 12 x 25 cm.
Hiện nay, WASI đã phối hợp với các doanh nghiệp như Eakmat, Nestlé xây dựng hệ thống vườn ươm quy mô lớn, sản xuất hàng triệu cây giống cà phê mỗi năm. Các công nghệ nhân giống bằng chồi, ghép, thực sinh và nuôi cấy mô đều được ứng dụng để đảm bảo chất lượng đồng đều, sạch bệnh. Nhiều mô hình đã sử dụng cây giống hai năm bầu lớn (30 x 40 cm) và cho thấy tỷ lệ sống đạt tới 97%, sinh trưởng nhanh, vàng lá rất ít.
Hiện nay, nhiều hộ dân khi mua giống cà phê rất lo lắng về nguồn gốc vì đa phần chưa tiếp cận được các nguồn đảm bảo chất lượng, rõ nguồn gốc, nhất là ở các vùng xa trung tâm. Ảnh: Phạm Hoài.
Thạc sĩ Đinh Thị Tiếu Oanh cũng kiến nghị cần tiếp tục đầu tư cho công tác chọn tạo giống mới, đặc biệt là giống kháng tuyến trùng và chịu hạn, tăng cường quản lý chất lượng cây giống tại các địa phương, mở rộng xây dựng vườn nhân giống tập trung và nâng cao nhận thức của nông dân về vai trò của giống trong sản xuất bền vững.
“Việc chọn đúng giống không chỉ giúp bà con nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm mà còn là nền tảng để phát triển ngành cà phê Việt Nam ổn định và bền vững trong thời gian tới”, bà Oanh nói.
Cà phê là cây công nghiệp lâu năm, thường mất 2,5 – 3 năm sau trồng mới bắt đầu cho thu hoạch và ổn định từ năm thứ 5 trở đi. Với chi phí đầu tư từ khi trồng đến khi thu hoạch có thể lên đến 200–250 triệu đồng/ha, nếu chọn phải giống kém chất lượng, năng suất thấp, dễ nhiễm bệnh thì thiệt hại là rất lớn, kéo dài nhiều năm và khó phục hồi. Do đó, việc chọn giống cà phê chất lượng, rõ nguồn gốc, có bảo hành, được cơ quan nhà nước cấp phép là yếu tố sống còn để đảm bảo hiệu quả đầu tư và phát triển bền vững.
Nguồn: Nongnghiepmoitruong.vn