Một nghiên cứu do Đại học Tel Aviv-Israel dẫn đầu đã phát hiện rằng trẻ sơ sinh được kê đơn thuốc ức chế axit trong sáu tháng đầu đời có nguy cơ cao hơn phát triển tự miễn celiac trong một số điều kiện nghiên cứu nhất định. Tuy nhiên, mối liên hệ này chỉ xuất hiện trong nghiên cứu đoàn hệ và không được xác nhận trong phân tích đối chứng âm tính, khiến kết quả nghiên cứu chưa thể khẳng định rõ ràng mối quan hệ nhân quả.
Thuốc ức chế axit, bao gồm chất ức chế bơm proton và thuốc đối kháng thụ thể histamine H2 như omeprazole và ranitidine, ngày càng được kê đơn nhiều hơn cho trẻ sơ sinh trên toàn thế giới. Một số nghiên cứu quan sát trước đây từng ghi nhận mối liên hệ giữa việc sử dụng thuốc này từ sớm với các tác dụng phụ lâu dài như gãy xương hoặc bệnh celiac.
Bệnh celiac là một rối loạn đường ruột do phản ứng miễn dịch bất thường với gluten, gây tổn thương lớp niêm mạc ruột non, làm tăng tính thấm của niêm mạc và kích hoạt phản ứng miễn dịch mạn tính. Trong những thập kỷ gần đây, đối với cả bệnh tự miễn dịch bệnh celiac huyết thanh dương tính và bệnh celiac được xác nhận bằng sinh thiết.
Một số cơ chế đã được đề xuất để giải thích cách thuốc ức chế axit có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh celiac, như làm gián đoạn quá trình tiêu hóa protein hoặc thay đổi hệ vi sinh vật đường ruột.
Nghiên cứu có tên “Phơi nhiễm sớm với liệu pháp ức chế axit và sự phát triển tự miễn celiac”, được công bố trên JAMA Network Open, đã thực hiện hai phân tích hồi cứu dựa trên dữ liệu cấp độ dân số quy mô lớn để đánh giá mối liên hệ này. Một nghiên cứu theo đoàn hệ ghép cặp và một thiết kế đối chứng âm tính. Dữ liệu được lấy từ Maccabi Healthcare Services; hệ thống chăm sóc sức khỏe chiếm hơn 25% dân số Israel; bao gồm các trẻ sinh từ năm 2005 đến 2020 và vẫn tham gia hệ thống trong sáu tháng đầu đời.
Nghiên cứu đoàn hệ gồm 79.820 trẻ, trong đó 19.955 trẻ đã sử dụng thuốc ức chế axit trong sáu tháng đầu sau sinh. Mỗi trẻ dùng thuốc được ghép cặp với tối đa ba trẻ không dùng thuốc. Thời gian theo dõi kéo dài đến khi trẻ 10 tuổi, rời khỏi hệ thống chăm sóc sức khỏe, hoặc được chẩn đoán tự miễn celiac.
Kết quả cho thấy, 1,6% trẻ sử dụng liệu pháp ức chế axit đã phát triển bệnh tự miễn dịch bệnh celiac, so với 1,0% ở nhóm không dùng thuốc. Người sử dụng liệu pháp ức chế axit có tỷ lệ nguy cơ mắc bệnh đã điều chỉnh là 1,52. Mối liên quan mạnh hơn đã được quan sát thấy ở trẻ em sử dụng liệu pháp ức chế axit trong hơn một tháng. Tỷ lệ nguy cơ mắc bệnh đã điều chỉnh khi sử dụng kéo dài là 1,65.
Ngược lại, trong phân tích đối chứng âm tính gồm 24.684 trẻ từng được xét nghiệm tự miễn celiac, tỷ lệ dùng thuốc ở nhóm dương tính là 5,0%, so với 4,6% ở nhóm âm tính. Tuy nhiên, tỉ lệ này không có ý nghĩa thống kê (tỷ số chênh OR = 1,07).
Sự khác biệt trong kết quả giữa hai phương pháp nghiên cứu cho thấy tính phức tạp trong việc xác định mối liên hệ nhân quả từ dữ liệu quan sát. Các tác giả lưu ý rằng thiết kế đoàn hệ có thể bị ảnh hưởng bởi sai lệch lựa chọn; cụ thể là trẻ dùng thuốc có thể có khả năng cao hơn được xét nghiệm bệnh celiac nhưng điều này vẫn chưa được xác minh rõ ràng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy cần thận trọng khi diễn giải dữ liệu quan sát và nhấn mạnh sự cần thiết của các nghiên cứu sâu hơn, có thiết kế thử nghiệm lâm sàng hoặc nghiên cứu tiền cứu để làm rõ mối quan hệ giữa thuốc ức chế axit và nguy cơ phát triển bệnh celiac ở trẻ nhỏ.
Theo: vista.gov.vn